Giải quyết tranh chấp số DS064

05/10/2010    873

Indonesia — Một số biện pháp nhất định ảnh hưởng đến ngành công nghiệp ô tô

Thông báo thực thi bởi bị đơn ngày 26/07/1999

Tiêu đề:

Indonesia — Ô tô

Nguyên đơn:

Nhật Bản

Bị đơn:

Indonesia

Các bên thứ ba:

Ấn Độ; Hàn Quốc; Hoa Kỳ

Các hiệp định được viện dẫn: (tại yêu cầu tham vấn)

Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng: Điều 1, 3, 3.1(b), 5, 6, 7, 2.3, 28.2;

Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại: Điều 2;

GATT 1994: Điều X:3(a), I:1, III:2, III:4, X:1

Yêu cầu tham vấn ngày:

29 tháng 11 năm 1996

Báo cáo của Ban Hội thẩm ngày:

2 tháng 7 năm 1998

Báo cáo của Cơ quan Trọng tài theo Điều 21.3(c) ban hành ngày

7 tháng 12 năm 1998

Tóm tắt cập nhật vụ việc

Bản tóm tắt vụ việc cập nhật đến ngày 24 tháng 2 năm 2010

Tham vấn

Nguyên đơn là Cộng đồng châu Âu (WT/DS54), Nhật Bản (WT/DS55 và WT/DS64), và Hoa Kỳ (WT/DS59).

Ngày 3 tháng 10 năm 1996, EC yêu cầu tham vấn với Indonesia, ngày 4 tháng 10 năm 1996, Hoa Kỳ yêu cầu tham vấn với Indonesia về chương trình ô tô quốc gia của Indonesia. EC cho rằng việc miễn thuế hải quan và thuế xa xỉ phẩm đánh vào hàng nhập khẩu “ô tô quốc gia” và các linh kiện kèm theo của chúng cũng như các biện pháp liên quan vi phạm nghĩa vụ của Indonesia theo Điều I và III của GATT 1994, Điều 2 của Hiệp định TRIMs và Điều 3 của Hiệp định SCM. Nhật Bản tranh luận rằng những biện pháp này đã vi phạm nghĩa vụ của Indonesia theo Điều I: 1, III:2, III:4 và X:3(a) của GATT 1994 cũng như Điều 2 và 5.4 của Hiệp định TRMs. Hoa Kỳ tranh luận rằng những những biện pháp này đã vi phạm nghĩa vụ của Indonesia theo Điều I và III của GATT 1994, Điều 2 của Hiệp định TRIMs, Điều 3, 6 và 28 của Hiệp định SCM và Điều 3, 20 và 65 của Hiệp định TRIPS.

Ngày 17 tháng 4 năm 1997, Nhật Bản yêu cầu thành lập một Ban Hội Thẩm về đơn kiện trong các vụ WT/DS55 và WT/DS64. Tại cuộc họp của mình ngày 30 tháng 4 năm 1997, DSB đã đã trì hoãn việc thành lập một ban hội thẩm. Ngày 12 tháng 5 năm 1997, EC yêu cầu thành lập một Ban Hội Thẩm cho vụ kiện WT/DS54 Tại cuộc họp của mình ngày 23 tháng 5 năm 1997, DSB đã đã trì hoãn việc thành lập một Ban Hội Thẩm.

Giai đoạn Hội thẩm và Phúc thẩm

Sau đó, trước yêu cầu lần thứ hai về việc thành lập một Ban Hội Thẩm cho vụ kiện WT/DS54 của EC và Nhật Bản, DSB đã thành lập một ban vào cuộc họp của mình ngày 12 tháng 6 năm 1997. Theo Điều 9.1 của DSU, DSB quyết định rằng một Ban Hội Thẩm sẽ thẩm tra vụ tranh chấp WT/DS54, WT/DS55 và WT/DS64. Ấn Độ, Hàn Quốc và Hoa Kỳ trong vai trò là bên thứ ba.

Ngày 12 tháng 6 năm 1997, Hoa Kỳ yêu cầu thành lập một Ban Hội Thẩm. Tại cuộc họp của mình ngày 25 tháng 6 năm 1997, DSB đã đã trì hoãn việc thành lập một ban hội thẩm. Sau đó, trước yêu cầu lần thứ hai về việc thành lập một Ban Hội Thẩm của Hoa Kỳ, DSB đã thành lập một ban vào cuộc họp của mình ngày 30 tháng 7 năm 1997. Theo Điều 9.1 của DSU, DSB quyết định rằng một Ban Hội Thẩm sẽ thẩm tra vụ tranh chấp hợp nhất giữa WT/DS54, WT/DS55 và WT/DS64. Ấn Độ, Hàn Quốc và Hoa Kỳ trong vai trò là bên thứ ba.

Ngày 25 tháng 7 năm 1997, EC và Nhật Bản yêu cầu Tổng giám đốc quyết định về thành phần của Ban Hội Thẩm. Ngày 29 tháng 7 năm 1997, Ban Hội Thẩm được thành lập.

Phán quyết của Ban Hội Thẩm được ban hành tới các thành viên vào ngày 2 tháng 7 năm 1998. Ban Hội Thẩm kết luận rằng Indonesia đã vi phạm Điều I và II:2 của GATT 1994, Điều 2 của Hiệp định TRIMs và Điều 5(c) của Hiệp định SCM nhưng không vi phạm Điều 28.2 của Hiệp định SCM. Tuy nhiên Ban Hội Thẩm kết luận rằng nguyên đơn đã không chứng minh được rằng Indonesia đã vi phạm Điều 3 và 65.5 của Hiệp định TRIPS. Tại cuộc họp của mình ngày 23 tháng 7 năm 1998, DSB phê chuẩn phán quyết của Ban Hội Thẩm.

Tình hình thực hiện các phán quyết đã được thông qua.

Nguyên đơn là Hoa Kỳ, Cộng Đồng châu Âu và Nhật Bản

Indonesia đưa ra ý định của mình nhằm thực hiện theo đề xuất của DSB trong thời gian cho phép theo Điều 21 của DSU. Ngày 8 tháng 10 năm 1998, EC, theo điều 21.3 của DSU đã yêu cầu rằng khoảng thời gian thực hiện phán quyết hợp lý phải được xác định theo phán xử mang tính chất bắt buộc. Thẩm phán phán xử rằng khoảng thời gian thực hiện phán quyết hợp lý để Indonesia thi hành theo đề xuất và xét xử của DSB là 12 tháng kể từ ngày thông qua phán quyết của Ban Hội Thẩm, tức là ngày 23 tháng 7 năm 1999. Phán quyết của thẩm phán được ban hành tới các thành viên ngày 7 tháng 12 năm 1998. Theo truyền đạt ngày 15 tháng 7 năm 1999, Indonesia thông báo cho DSB biết rằng nước này đã ban hành một chính sách ô tô mới vào ngày 24 tháng 6 năm 1999 (Chính sách ô tô năm 1999), chính sách này đã thực hiện tốt các đề xuất và xét xử của DSB về vấn đề này.