Sau khi chứng kiến ​​sự gia tăng đáng kể trong xuất khẩu sang Hoa Kỳ theo một hiệp định thương mại ưu đãi trong nhiều năm qua và thay thế các nhà cung cấp Trung Quốc do tăng thuế, Thổ Nhĩ Kỳ đã bị loại khỏi chương trình thương mại miễn thuế.

Một báo cáo gần đây của Liên minh Hệ thống ưu đãi tổng quát (GSP), một tổ chức có trụ sở tại Washington, DC được thành lập bởi một nhóm các công ty và tổ chức thương mại Mỹ, đã tiết lộ rằng các công ty Mỹ đã dựa vào các nước được hưởng GSP bao gồm Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ, Indonesia, Thái Lan và Campuchia để nhập khẩu hàng hóa miễn thuế vì chính quyền Mỹ áp thuế đối với nhiều loại hàng hóa thay thế từ Trung Quốc theo Khoản mục 301 vào ngày 23/3.

Các số liệu nhập khẩu trong tháng 3 và tháng 4 cho thấy, Ấn Độ và Thổ Nhĩ Kỳ là hai quốc gia hàng đầu được hưởng lợi từ chương trình GSP sau thuế quan đối với Trung Quốc tăng lên. Mặc dù các công ty Hoa Kỳ đã tiết kiệm tới 285 triệu đôla trong quý đầu năm nay nhờ nhập khẩu miễn thuế theo chương trình GSP, Tổng thống Donald Trump đã loại bỏ Thổ Nhĩ Kỳ khỏi chương trình, làm suy yếu nỗ lực đạt 75 tỷ đôla trong khối lượng thương mại song phương.

Vào ngày 22/3/2018, Tổng thống Trump đã ký Bản ghi nhớ về các hành động của Hoa Kỳ liên quan đến Điều tra Khoản mục 301. Được Nhà Trắng mô tả là mục tiêu của "sự xâm lược kinh tế" của Trung Quốc, bản ghi nhớ đã xác định bốn chính sách rộng lớn biện minh cho hành động của Hoa Kỳ chống lại Trung Quốc theo Khoản mục 301.

Trong khuôn khổ thuế quan bổ sung đối với Trung Quốc, hàng hóa nhập khẩu từ quốc gia này theo chương trình GSP được áp dụng mức thuế 22%, trong khi các sản phẩm khác mà các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ mua từ Trung Quốc bị đánh thuế 15%. Hơn 75% hàng hóa mà Trung Quốc xuất khẩu sang Hoa Kỳ trong khuôn khổ GSP đã được liệt kê trong biểu thuế bổ sung theo Khoản mục 301, một điều khoản trong luật thương mại năm 1974 của Hoa Kỳ. Danh sách này bao gồm một loạt các sản phẩm - chính xác là 1.300 dòng thuế: thịt và các sản phẩm từ sữa, hóa chất, nuôi trồng thủy sản, trái cây và rau quả tươi, hàng điện và điện tử, sản phẩm dệt, các loại hạt và ngũ cốc.

Thay vì chịu thêm thuế quan, các công ty Hoa Kỳ đã tìm đến các nhà cung cấp Thổ Nhĩ Kỳ và Ấn Độ cho hàng hóa nhập khẩu trước đây từ Trung Quốc. Năm 2017, nhập khẩu của Hoa Kỳ theo chương trình GSP đạt tổng cộng 21,1 tỷ đôla, trong khi con số này tăng lên 23,6 tỷ đôla sau khi tăng thuế đối với hàng hóa Trung Quốc. Bản tài liệu của Liên minh GSP đưa ra rằng "cuộc chiến thương mại kéo dài gần một năm đang đẩy các công ty đến nhiều nguồn từ các nước GSP như Ấn Độ, Thái Lan, Campuchia, Indonesia và Thổ Nhĩ Kỳ". Chỉ riêng trong tháng 3, các công ty Mỹ đã tiết kiệm được 105 triệu đôla, tăng 36% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong khoảng thời gian từ tháng 1 đến tháng 3/2019, GSP đã tiết kiệm cho các công ty Mỹ 285 triệu đôla, nhiều hơn 63 triệu đôla so với quý đầu tiên của năm 2018.

Các sản phẩm bị áp thuế theo Khoản mục 301 khi nhập khẩu từ Trung Quốc chiếm 90% lượng nhập khẩu GSP tăng trong năm 2019. Nhìn chung, nhập khẩu GSP tăng khoảng 760 triệu đôla, với 672 triệu đôla đến các sản phẩm trong danh sách Khoản mục 301 của Trung Quốc. Danh sách Khoản mục 301 tăng 19%, trong khi nhập khẩu GSP của các sản phẩm khác chỉ tăng 5%.

Cụ thể hơn, 97% của phần nhập khẩu tăng thêm theo GSP trong năm 2019 là từ Ấn Độ nằm trong danh sách Khoản mục 301 của Trung Quốc. Nhập khẩu GSP trên danh sách Khoản mục 301 tăng thêm 193 triệu đôla với mức tăng 18%, trong khi nhập khẩu mọi mặt hàng khác chỉ tăng 7 triệu đôla, ghi nhận mức tăng 2%. Đối với Thổ Nhĩ Kỳ, 97% phần nhập khẩu tăng thêm theo GSP năm 2019 nằm trong danh sách Khoản mục 301 của Trung Quốc. Nhập khẩu GSP trên danh sách Khoản mục 301 đã tăng 40 triệu đôla với mức tăng 13%. Do đó, Thổ Nhĩ Kỳ trở thành người hưởng lợi lớn thứ hai của chương trình GSP sau thuế quan của Trung Quốc. Tổng thống Trump đã lấy lý do mức độ phát triển của Thổ Nhĩ Kỳ và đã đưa nước này ra khỏi chương trình GSP.

Tổng thống Trump nhằm vào mục đích thúc đẩy sản xuất trong nước bằng cách tăng thuế đối với hàng hóa Trung Quốc. Tuy nhiên, các công ty Hoa Kỳ đã thay thế thị trường Trung Quốc bằng Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ, Indonesia và Philippines. Điều này đã khiến ông Trump tuyên bố vào ngày 4/3/2019 là ông sẽ loại bỏ Thổ Nhĩ Kỳ và Ấn Độ khỏi chương trình GSP. Sau thời hạn 60 ngày và hết hạn vào ngày 3/5 vừa qua, chính quyền Hoa Kỳ đã thu hồi giấy phép của Thổ Nhĩ Kỳ trong chương trình GSP trong khi không đề cập bất cứ điều gì về sự tham gia của Ấn Độ vào chương trình. Hơn nữa, Indonesia và Thái Lan cũng bị hạn chế.

Thổ Nhĩ Kỳ đã xuất khẩu hàng hóa trị giá 1,6 tỷ đôla theo chương trình GSP năm 2017 và con số này đã tăng lên 1,9 tỷ đôla vào năm ngoái. Tổng kim ngạch xuất khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ sang Hoa Kỳ được ghi nhận ở mức 8,6 tỷ đôla trong năm 2017 và 8,3 tỷ đôla trong năm 2018.

Việc Thổ Nhĩ Kỳ loại bỏ khỏi chương trình GSP sẽ dẫn đến tăng thuế đối với 1.484 sản phẩm, bao gồm các bộ phận ô tô, đá có giá trị và các bộ phận máy móc. Sự gia tăng về hàng hóa cũng sẽ tác động tiêu cực đến các công ty Hoa Kỳ vì họ sẽ phải phản ánh chi phí nhập khẩu trên các sản phẩm của họ.

Theo dữ liệu thu được từ Hội xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ (TIM), xuất khẩu xi măng được ghi nhận ở mức 17,5 triệu đôla trong năm 2015. Vào tháng 3/2019, việc bán xi măng, được bao gồm trong Khoản mục 301, đã tăng 114,8% và đạt 37,7 triệu đôla. Hơn nữa, xuất khẩu ngũ cốc và lúa mì tăng 23,5% và đạt 25,8 triệu đôla trong tháng 3 so với 20,9 triệu đôla cùng kỳ năm ngoái.

Xuất khẩu trang sức sang Hoa Kỳ cũng được hưởng lợi từ danh sách Khoản mục 301 khi cho thấy tăng hơn 20 phần trăm trong tháng 3 so với cùng kỳ năm ngoái. Trong tháng thứ ba của năm nay, Thổ Nhĩ Kỳ đã bán gần 30 triệu đôla trang sức cho Hoa Kỳ trong khi đó là 24,6 triệu đôla vào năm ngoái trong cùng kỳ. Vào tháng 3, xuất khẩu trang sức của Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng lên 29,6 triệu đôla, tương đương 24,6 triệu đôla trong cùng tháng năm ngoái. Xuất khẩu trang sức tiếp tục tăng trong tháng 4, với mức tăng 140,2% và đạt 58,1 triệu đôla trong khi con số này chỉ là 24 triệu đôla vào tháng 4/2018.

Nguồn: Báo Công thương